Bên ngoài tác phẩm
![]() |
* Đầu tiên xin ông cho biết đôi chút về bút danh của mình, tại sao là Trần Huiền Ân "i" mà không phải "y" trong khi tên thật ông là Trần Sĩ Huệ, tên cụ thân sinh là Trần Huyền Đoan?
- Bây giờ gọi là bút danh. Thời trước gọi là bút hiệu. Những người thuộc gia đình Nho học thường có thêm tên tự và tên hiệu. Một trong những cách đặt các tên này là có sự liên hệ với tên chính, bằng một câu sách chẳng hạn. Như bút hiệu Quán Chi của ông Đào Trinh Nhất do câu Ngô đạo nhất dĩ quán chi. Chữ Huệ trong tên tôi không có bộ thảo đầu, không phải hoa huệ mà là ơn huệ.
Đọc câu Trí huệ chi sĩ thị huyền ân dã (trí huệ của kẻ sĩ có được là nhờ ơn mầu nhiệm vậy) tôi nghĩ phải có một ơn mầu nhiệm ban cho chừng nào, ta mới có một trí huệ chừng ấy. Dùng bút hiệu này để nói lên lòng tôn kính với một đấng vô minh tôi chưa được biết.
Thuở bắt đầu quốc ngữ, người ta đánh giá rằng y = 2i, y đọc là i Grec (Grec = Hi Lạp). Y nằm ở vị trí cuối trong bảng chữ cái, chúng tôi thường đọc là i cà-rết, diễu thành i cà-lết. Y có giá trị 2i nên dùng ở các âm về cuối như hay, tay, huy, tuy... để phân biệt với hai, tai, hui, tui... Tác giả viết tên ông là Huình Tịnh Của, dùng i trong các chữ huình, huiền, tuiền... Sau này, Nguyễn Hữu Ngư với bút hiệu Nguiễn Ngu Í đồng tình với chính tả như trên và có thư đề nghị bộ trưởng quốc gia giáo dục đương thời. Nguyễn Nho Bửu cũng dùng i trong bút hiệu Nguiễn Nho Sa Mạc.
Nói thêm là Huình Tịnh Của viết quấc âm thay vì quốc âm, vì người miền Nam viết quốc mà vẫn nói là quấc, khi đọc thì đôi khi mới đọc quốc. Chi mà rắc rối vậy!
Nhà văn Trần Huiền Ân tuổi Đinh Sửu (1937), cả đời sống và đời văn của ông gần như gắn chặt với vùng đất Nam Trung bộ, cụ thể là tỉnh Phú Yên. Ông làm nhiều nghề, đầu tiên là dạy học, sau đó vẽ tranh cổ động trong thời bao cấp... |
* Được biết ông từng là nhà giáo, vậy nên gọi ông là nhà giáo viết văn hay nhà văn đi "gõ đầu trẻ”? Giữa hai nghề và nghiệp này, ông cân bằng ra sao?
- Dạy học là nghề, viết văn là nghiệp, vậy có thể nói tôi là nhà giáo viết văn. Tôi không nghĩ mình là nhà văn, nhưng cái chức danh nhà giáo cũng không đi được trọn đời. Những năm dạy học và viết văn, đâu có gì phải đặt vấn đề cân bằng, tự nó cân bằng trong tâm trí ta rồi.
Dạy học, gần với lớp trẻ, ta có thêm nhiều đề tài, nhiều ý tưởng để viết. Có những bài thơ, đoạn truyện được viết ngay tại lớp học, khi học sinh chăm chú làm bài, trong một khung cảnh không phải hoàn toàn yên lặng nhưng là sự yên lặng tuyệt vời. Những bài thơ tôi viết sau này có già dặn hơn, sâu sắc hơn, nhưng mất đi sự trong trắng hồn nhiên của thời 1962 về trước. Tôi rất yêu mến những truyện ngắn viết lúc đó, không bị sóng gió thời cuộc lôi kéo nghiêng ngả.
* Trong danh thiếp của mình, ông ghi chức danh là "thường dân hạng bét". Có phải do "tai nạn" trong bài thơ Khúc hát ngày về và Ngọn cỏ tịch điền nên ông nhận mình "hạng bét" không?
- Không đâu. Những chuyện đó chỉ làm bực mình, có lúc thấy buồn cười, đâu đến nỗi phải ghi vào danh thiếp. Suốt đời tôi chỉ làm dân. Hồi năm 1963, trong một bài thơ (in tập Thuyền giấy - 1967) tôi đã nhận chức dân rồi. Năm 1985, khi bị bệnh nhập viện, cán bộ y tế cũng ghi tôi là dân. Người ta hay nói "phó thường dân", đó là nói giỡn, cũng như nói "binh 3", "đi vùng 5"... Thực tế chỉ có thường dân chứ không có phó thường dân.
Thường dân như tôi không có nhà cao cửa rộng, không có công danh chức tước, không vào hội người cao tuổi để khi chết có kèn trống í e thì đúng là hạng bét, đâu dám xưng thường dân hạng nhất, hạng nhì, hạng ba... vì đâu có tiêu chuẩn nào phân định.
* Ông làm thơ, viết văn rồi biên khảo, nghiên cứu lịch sử, văn hóa dân gian vùng đất Phú Yên, Nam Trung bộ... Xem danh mục đầu sách ông đã xuất bản, thấy rằng phần nghiên cứu, biên khảo chiếm phần nhiều. Phải chăng do nghiền ngẫm "ngày xưa" nhiều quá nên thơ văn của ông cũng hoài cổ, cụ thể là cách dùng từ như "ngọn cỏ tịch điền"?
- Tôi sống một cuộc sống buồn từ nhỏ, yêu thương và trân trọng nỗi buồn, hơn nữa yếu tính của nghệ thuật là cái buồn nên viết ra điều gì cũng có chút buồn phảng phất. Kể cả sưu tầm nghiên cứu. Đi đây đi đó tôi chú ý tìm hiểu các di tích hơn, quí mến cái không gian u tịch, dấu vết rêu phong nơi đền xưa tháp cổ, đồng thời là nét hùng vĩ của núi cao vực thẳm, trời rộng sông dài... ít ham cái mới lạ của những công trình hiện đại. Còn chuyện sách đã in, biên khảo nghiên cứu đâu chiếm phần nhiều hơn. Mỗi bài thơ, truyện ngắn, cuốn sách... đều có số phận của nó, có cuốn muốn in mà gặp trục trặc này nọ chưa in được, có cuốn chưa định in tự nhiên có cơ duyên được in. Thôi thì cứ tự an ủi là vậy.
* Ông có câu thơ "Xóm nghèo quán cóc cũng xa sao". Vậy bây giờ cái xóm nghèo của ông đã hội nhập toàn cầu tới đâu rồi?
- Cái xóm nghèo của tôi có khá hơn trước nhưng vẫn còn nghèo so với toàn cảnh. Ngày xưa nó gần trung tâm thành phố, có đình, có chùa, có chợ, có nhà hộ sinh, có bến sông, có đường lên núi… bây giờ nó nằm ngoài rìa nên số phận như thế. Người dân trong xóm vẫn chờ mong và hi vọng một ngày nào đó kè Bạch Đằng hoàn thành, con đường ven sông thành phong cảnh xinh đẹp để xóm nghèo thay da đổi thịt. Riêng tôi không hề nghĩ gì, mong gì, và nếu không có câu hỏi này tôi cũng quên là mình vẫn sống trong xóm nghèo.
* Ở tuổi xưa nay hiếm, cầm bút gần trọn đời người... ông có thể đúc kết, rút ra niềm vui và nỗi buồn của mình trong vài dòng không?
- Tuổi ngoài 70 bây giờ loạn ra đấy, hiếm gì! Tôi chưa sơ kết, tổng kết chi cả, sống tới đâu hay tới đó nên không có nỗi niềm để rút ra! Viết lách là một phần của cuộc sống, mà cuộc sống thì có vui có buồn. Đáng nói là những nỗi niềm do viết lách đem lại hình như vui nhiều hơn, bởi vì gặp nhau trong nỗi buồn cũng là một điều vui rồi. Vui vì có sự thông cảm giữa người đọc và người viết. Trên đời còn có gì quí hơn tri âm tri kỷ? Buồn là khi có những cảm nghĩ, nhận định sai vội vàng đưa vào, không thể nào xóa bỏ được, nó vẫn còn đó trên mực đen giấy trắng, cho dẫu bao nhiêu năm tháng trôi qua, mỗi lần nhớ lại đầy những xót xa.
Áo Trắng số 20 (ra ngày 15-03-2008) hiện đã có mặt tại các sạp báo. Mời bạn đọc đón mua để thưởng thức được toàn bộ nội dung của ấn phẩm này. |
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận