
Phụ huynh và học sinh tìm hiểu về các trường đại học tại Ngày hội tư vấn tuyển sinh - hướng nghiệp do báo Tuổi Trẻ tổ chức năm 2025 - Ảnh: THANH HIỆP
Không chỉ là câu chuyện của tự chủ tài chính hay quản trị học thuật, thách thức đặt ra cho giáo dục đại học Việt Nam là làm thế nào để chuyển hóa từ quản trị hành chính sang lãnh đạo triết lý, từ phục vụ con người đến đổi mới sáng tạo có trách nhiệm, và cuối cùng là đồng kiến tạo hệ sinh thái tri thức.
Khi quyền tự chủ đại học ngày càng được mở rộng, một câu hỏi căn bản trở thành tâm điểm của thảo luận chính sách và chiến lược giáo dục: đâu là triết lý phát triển bền vững, nhân văn và có trách nhiệm xã hội cho các trường đại học trong thế kỷ 21?
Lãnh đạo kiến tạo
Khái niệm "lãnh đạo phục vụ" - servant leadership (nói rộng ra là lãnh đạo kiến tạo) do Robert K. Greenleaf đề xuất từ thập niên 1970 đã mở ra một hướng tiếp cận mới về vai trò của nhà lãnh đạo, tái định nghĩa quyền lực tổ chức.
Ngày nay, lãnh đạo phục vụ không chỉ đơn thuần là "dịch vụ cho người học" mà là triết lý đặt con người làm trung tâm - một không gian nơi giảng viên được trao quyền, sinh viên được lắng nghe, và đội ngũ quản trị trở thành người đồng hành phát triển năng lực cộng đồng học thuật.
Khi vận hành đúng, mô hình này tạo ra một môi trường học thuật mang tính cộng sinh, nuôi dưỡng sự gắn bó và sáng tạo nội sinh. Giảng viên gắn bó hơn, sinh viên chủ động hơn, đội ngũ quản trị thấy mình là thành phần kiến tạo hơn là người kiểm soát.
Tuy nhiên, áp dụng triết lý này trong đại học Việt Nam không hề đơn giản. Phần lớn cơ sở giáo dục vẫn chịu ảnh hưởng của mô hình quản trị hành chính, nặng về mệnh lệnh - kiểm soát. Không gian cho đối thoại học thuật cởi mở còn hạn chế.
Giảng viên - những người lẽ ra là trung tâm sáng tạo và phát triển văn hóa học thuật - lại thường bị bó buộc bởi các chỉ tiêu hành chính đơn điệu và cơ chế đánh giá thiếu chiều sâu. Khi quyền ra quyết định chủ yếu tập trung ở bộ phận quản lý thì triết lý kiến tạo và phục vụ dễ bị hình thức hóa.
Trên nền tảng lãnh đạo phục vụ, trường đại học có điều kiện thúc đẩy đổi mới sáng tạo như động lực nội sinh để phát triển bền vững lâu dài. Nhưng đổi mới sáng tạo trong giáo dục không chỉ đơn thuần là công nghệ hóa giảng đường hay số hóa giáo trình. Vấn đề cốt lõi là tư duy lại toàn bộ sứ mệnh của nhà trường trong mối quan hệ với xã hội, cộng đồng và thế hệ tương lai.
Tư duy mới về đổi mới sáng tạo
Đổi mới sáng tạo trong bối cảnh hiện đại phải vượt ra khỏi tư duy "cho chính mình" và hướng tới đổi mới sáng tạo "vì cộng đồng", "vì tương lai". Mỗi sáng kiến phải được soi chiếu dưới góc nhìn của trách nhiệm xã hội, giá trị cộng đồng và phát triển bền vững.
Trong tiến trình ấy, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trở thành một cấu phần quan trọng của hệ sinh thái đại học hiện đại. Sinh viên, giảng viên không chỉ nghiên cứu thuần túy mà còn chuyển hóa kết quả nghiên cứu thành các sản phẩm, dịch vụ, công nghệ giải quyết các vấn đề thực tiễn của xã hội. Các doanh nghiệp công nghệ mới, mô hình kinh doanh xanh, doanh nghiệp xã hội phục vụ cộng đồng yếu thế hình thành ngay từ trong lòng trường đại học.
Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo giúp nhà trường xóa nhòa ranh giới giữa học thuật và đời sống thực tiễn, giữa lý luận và ứng dụng. Trường đại học lúc này không còn là "ốc đảo tri thức" mà trở thành mắt xích năng động trong toàn bộ mạng lưới kiến tạo xã hội quốc gia.
Tuy nhiên, để đổi mới sáng tạo không lệch hướng thành chạy theo thành tích hay thương mại hóa cực đoan, vai trò lãnh đạo kiến tạo và phục vụ tiếp tục giữ vị trí trung tâm. Chính tư duy kiến tạo giúp duy trì giá trị nhân văn sâu sắc trong mọi nỗ lực đổi mới, đặt con người và cộng đồng vào vị trí trung tâm của mọi sáng tạo.
Hệ sinh thái đại học
Khi các nền tảng nhân văn và năng lực đổi mới sáng tạo có trách nhiệm đã vững chắc, trường đại học có thể bước lên cấp độ phát triển cao nhất: hệ sinh thái đại học (ecological university).
Đây là mô hình giúp nhà trường hòa nhập sâu vào mạng lưới phức hợp giữa tri thức, kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường tự nhiên, gắn chặt với các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc.
Về tổng thể, hệ sinh thái đại học được đặc trưng bởi ba trụ cột chính. Thứ nhất là tư duy hệ thống, nơi nhà trường không vận hành độc lập mà trở thành một phần liên kết hữu cơ với các hệ thống xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị, tự nhiên và tri thức toàn cầu.
Thứ hai là trách nhiệm đa chiều, khi đại học không chỉ chịu trách nhiệm với người học mà còn với cộng đồng, với thiên nhiên, với sự công bằng tri thức và với cả các thế hệ tương lai. Thứ ba là vai trò nuôi dưỡng, kiến tạo nhà trường như một môi trường chăm sóc, thúc đẩy học tập suốt đời, sáng tạo liên ngành, cộng sinh giữa con người với nhau và giữa con người với hệ sinh thái tự nhiên.
Điều quan trọng là quá trình hình thành hệ sinh thái đại học không thể được tạo ra bằng mệnh lệnh hành chính hay các chỉ tiêu kế hoạch khô cứng. Đây là một sự chuyển hóa nội sinh lâu dài, bắt đầu từ thay đổi triết lý lãnh đạo, văn hóa tổ chức và hệ giá trị học thuật.
Trong đó, lãnh đạo phục vụ đóng vai trò như chất xúc tác khởi nguồn; còn đổi mới sáng tạo có trách nhiệm trở thành công cụ then chốt giúp hệ sinh thái đại học phát triển linh hoạt nhưng vẫn giữ vững các giá trị bền vững.
Cần chuyển hóa đồng bộ, thực chất
Chuyển hóa triết lý lãnh đạo trong đại học không phải là một sáng kiến kỹ thuật, mà là một quá trình tiến hóa tổ chức - nơi nhà trường học cách sống lại như một cộng đồng tri thức.
Hành trình từ lãnh đạo phục vụ, qua đổi mới sáng tạo có trách nhiệm, tiến tới hệ sinh thái đại học chính là lộ trình khả thi để giáo dục đại học Việt Nam phát triển bền vững, gìn giữ các giá trị nhân văn, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hội nhập sâu rộng, thực chất với thế giới. Muốn vậy, cần có sự chuyển hóa đồng bộ từ tư duy lãnh đạo, văn hóa tổ chức nội bộ, cho đến hệ thống chính sách quốc gia về giáo dục đại học.
Cơ hội cho Việt Nam

Việt Nam hiện đang đứng trước cơ hội vàng để tái cấu trúc toàn diện hệ sinh thái đại học. Tự chủ đại học đã mở ra không gian rộng hơn cho đổi mới tổ chức. Tuy nhiên, nếu tự chủ chỉ dừng lại ở tài chính, nhân sự mà thiếu vắng tự chủ về triết lý phát triển thì các trường có nguy cơ sa vào vòng xoáy tầm nhìn ngắn hạn và thành tích hình thức.
Để tiếp cận một hệ sinh thái đại học thực sự bền vững, bốn nhóm giải pháp then chốt cần được đặt ra.
Thứ nhất, bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo triết lý trong quản trị đại học. Phần lớn đội ngũ quản lý hiện nay trưởng thành từ hoạt động chuyên môn, nền tảng tư duy về quản trị tri thức, lãnh đạo phục vụ, quản trị học thuật mở còn bất cập. Các chương trình phát triển năng lực lãnh đạo đại học chuyên sâu, hỗ trợ người lãnh đạo các giải pháp phát triển cân bằng giữa tài chính, học thuật và trách nhiệm xã hội dài hạn.
Thứ hai, hình thành văn hóa tổ chức học tập trong từng cơ sở giáo dục đại học. Văn hóa đối thoại cởi mở, học hỏi liên tục, chấp nhận thử nghiệm, tạo môi trường an toàn nuôi dưỡng sự đổi mới từ bên trong.
Thứ ba, cải cách mạnh mẽ hệ thống đánh giá chất lượng, kiểm định, đối sánh và xếp hạng đại học. Cần bổ sung thêm các tiêu chí mang yếu tố trách nhiệm xã hội, đóng góp chính sách công, hiệu quả lan tỏa tri thức ra cộng đồng, thay vì chỉ quan tâm thống kê số bài báo hay chỉ tiêu tuyển sinh.
Thứ tư, kết nối sâu hệ sinh thái đại học với hệ sinh thái quốc gia về đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Trường đại học cần trở thành mắt xích trung tâm trong mạng lưới kinh tế tri thức quốc gia: từ năng lực khởi nghiệp, chuyển đổi số đến công nghệ xanh, phát triển xanh.
BÌNH LUẬN HAY