
TAND TP Đà Nẵng đã xét xử phúc thẩm và bác đơn kháng cáo của công ty bảo hiểm nhân thọ - Ảnh: ĐOÀN CƯỜNG
Phải chi trả hơn 1,2 tỉ đồng
Theo đó, các điều khoản phải thi hành: buộc công ty bảo hiểm nhân thọ này phải chi trả cho vợ chồng ông U.T.H. hơn 1,2 tỉ đồng; trong đó, tiền bảo hiểm là hơn 995 triệu đồng và tiền lãi tạm tính trên 250 triệu đồng.
Nếu công ty chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán thì phải trả lãi, theo mức lãi suất được quy định tại Bộ luật Dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
Trước đó, vợ chồng ông H. có đơn gửi cơ quan thi hành án dân sự yêu cầu thi hành án đối với công ty bảo hiểm nhân thọ trên.
Cả hai phiên tòa công ty bảo hiểm đều thua
Đây là diễn biến mới liên quan vụ tranh chấp hợp đồng bảo hiểm mà TAND TP Đà Nẵng có bản án phúc thẩm vừa qua.
Nguyên đơn là ông U.T.H. và bị đơn là Công ty bảo hiểm nhân thọ M.L.
Tại bản án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc Công ty bảo hiểm nhân thọ M.L. phải chi trả tiền bảo hiểm hơn 1,2 tỉ đồng (tiền bảo hiểm, lãi tạm tính) cho vợ chồng ông H. - là đồng thừa kế của ông U.C.H.Q. (Q. là con trai của vợ chồng ông H., chưa có vợ con).
Sau đó, công ty bảo hiểm kháng cáo, đề nghị cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với lý do ông Q. khai báo không trung thực khi ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Tòa phúc thẩm nhận định: Theo nội dung các đương sự trình bày, ngày 29-12-2021, ông Q. ký hợp đồng bảo hiểm với Công ty bảo hiểm nhân thọ M.L.
Hợp đồng bảo hiểm đã ký là hợp đồng theo mẫu, các điều khoản trong hợp đồng do công ty soạn sẵn, trong đó tại mục C có hỏi về thông tin sức khỏe của người được bảo hiểm, ông Q. đều đánh dấu vào tất cả ô "không".
Ngày 20-1-2022 phát hiện ông Q. chết và theo giám định của cơ quan chức năng, nguyên nhân là do ngạt nước nên cơ quan điều tra không khởi tố vụ án.
Căn cứ quy tắc điều khoản, ông H. (là ba của Q.) yêu cầu công ty chi trả bảo hiểm theo hợp đồng đã ký cho người thừa kế là vợ chồng ông với lý do Q. tử vong không liên quan gì đến các quy định tại mục C bộ hợp đồng bảo hiểm hỏi về thông tin sức khỏe của người được bảo hiểm.
Theo tòa, có cơ sở để chứng minh Q. đã đi khám do bệnh viêm xoang chứ chưa từng mắc bệnh, thăm khám hoặc điều trị về bệnh u não. Do đó, ông Q. không kê khai là có cơ sở.
Mặt khác, hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng theo mẫu, người tham gia bảo hiểm chỉ việc ký vào do tư vấn hướng dẫn. Những dấu tích đánh vào ô "không" đều được đánh sẵn bằng máy, người tham gia bảo hiểm không có thời gian, điều kiện để được đọc lại tất cả nội dung.
Các thông tin về sức khỏe của người được bảo hiểm quy định tại bộ hợp đồng là rất rộng. Trong thời gian ngắn người tham gia bảo hiểm không thể đọc và hiểu hết tất cả các điều khoản mà công ty bảo hiểm đưa ra để lựa chọn "có" hoặc "không".
Ông Q. ký kết hợp đồng bảo hiểm là do đang có nhu cầu vay vốn tại một ngân hàng.
Khi vay vốn tại ngân hàng này, người dân đồng thời được tư vấn mua bảo hiểm, nếu không mua, việc vay vốn sẽ gặp trở ngại, nên bên mua bảo hiểm chỉ việc ký vào hợp đồng mà không xem, đọc lại nội dung hợp đồng có những nội dung như thế nào.
Như vậy, bên mua bảo hiểm trong trường hợp này là bên yếu thế cần được bảo vệ.
Việc công ty bảo hiểm cho rằng ông Q. khai báo không trung thực, từ chối giải quyết quyền lợi cho ông là không có cơ sở.
Tòa đã bác kháng cáo của Công ty bảo hiểm nhân thọ M.L.; giữ nguyên nội dung bản án sơ thẩm.
Tòa chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông U.T.H. đối với bị đơn Công ty bảo hiểm nhân thọ M.L.; buộc công ty bảo hiểm nhân thọ này phải chi trả tổng số tiền bảo hiểm là hơn 1,2 tỉ đồng.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận