Những "thổ dân" chỉ đường đến tiến bộ xã hội

NGUYỄN VŨ HIỆP 05/08/2025 13:56 GMT+7

TTCT - Nhiều cộng đồng thiểu số bản địa, mà nền văn minh Tây từng xem là "bán khai", đang giữ giải pháp cho các vấn đề của xã hội hiện đại.

người da đỏ - Ảnh 1.

Người dân Malagasy. Ảnh: JULES BOSCO/PIXNIO CC

Điều này không hề mới. Từ thế kỷ 19, lối sống tự do và gần gũi thiên nhiên của những người da đỏ Bắc Mỹ đã ảnh hưởng mạnh đến tư tưởng của nhà tự nhiên học, nhà văn, triết gia Henry David Thoreau (1817-1862), qua đó định hình cả các phong trào dân sự lẫn các ngành sinh thái học trên toàn thế giới trong thế kỷ 20.

Nhà nhân học người Mỹ David Graeber (1961-2020), một trong những tư tưởng gia quan trọng nhất của phong trào Chiếm Phố Wall, cũng mang nợ các cộng đồng bản địa theo cách này. Khi xã hội hiện đại khủng hoảng vì sự gia tăng ô nhiễm môi trường, bất bình đẳng và chiến tranh, Graeber cho rằng lối sống của các sắc dân thiểu số có thể gợi ra giải pháp.

Từ một tín ngưỡng hậu hiện đại

Trong nghiên cứu Culture as creative refusal (Cambridge Anthropology số 31, 2013), Graeber đã mô tả các hành xử tiến bộ đến mức kỳ lạ trong văn hóa của người Malagasy - cộng đồng bản địa chiếm hầu hết dân số của đảo Madagascar.

Khác với mọi xã hội từng duy trì thẩm quyền của giới chức bằng những nghi lễ tôn giáo trang nghiêm, hầu hết thần thoại Malagasy lại mang dáng dấp của truyện cười, nghi thức kể truyện cũng trông như một trò đùa. Các buổi diễn xướng thần thoại của họ đều khép lại bằng một câu cửa miệng: "Người nói dối ở đây không phải tôi nhé, những lời nói dối này có từ ngày xưa cơ".

Người Magalasy không có đền thờ thần; và ngoài một vị Chúa tối cao ở trung tâm, các vị thần nhỏ hơn dường như được họ tùy hiện tạo ra để phục vụ yêu cầu của từng cốt truyện - lựa chọn này gần với văn chương hơn tín ngưỡng. 

Dường như thái độ hoài nghi các đại tự sự, mà triết gia Pháp Jean-François Lyotard (1924-1998) xem là đặc trưng cho "hoàn cảnh hậu hiện đại" nửa cuối thế kỷ XX, đã hiện diện nơi người Magalasy từ những thế kỷ họ chưa hiện đại hóa và chưa tiếp xúc với phương Tây.

Malagasy là một cộng đồng đa sắc tộc trong suốt dòng lịch sử. Cư dân trên đảo hình thành từ sự hợp huyết giữa các nữ nô lệ Đông Nam Á bị thuyền buôn Malay đưa đến từ thế kỷ 17 với các di dân sau đó đến từ Đông Phi.

Khoảng thế kỷ 19, giới thương nhân lập ra các thành thị lớn ven biển, nơi họ áp đặt sự phân biệt đối xử theo giai cấp, lùng bắt các cư dân bản địa làm nô lệ để bán tại các lãnh thổ Hồi giáo quanh Ấn Độ Dương. 

Chính những cư dân bị trị rời thành thị ven biển để chạy lên núi sống thành một cộng đồng chung đã tạo nên xã hội Malagasy, và chủ động sáng tạo một văn hóa chống hệ giá trị thần quyền Hồi giáo.

Dù chấp nhận một số giá trị của thành thị như tiền tệ và chữ viết, họ từ chối phân chia xã hội theo giai cấp, bằng nhiều giải pháp khác nhau. Chẳng hạn, họ kiêng xây nhà bằng đá, trong khi các biệt thự đá là cách để người giàu phô trương quyền lực ở thành thị Madagascar. Họ ra quyết định bằng đồng thuận tập thể, thay vì trao quyền cho các viên chức hành chính hay lãnh đạo tôn giáo.

Họ cũng ca ngợi sự khiêm tốn, chế nhạo các tham vọng cá nhân. Đời sống tín ngưỡng của người Malagasy dường như xoay quanh việc khẳng định quyền tự quyết cá nhân, thông qua câu chuyện về chiến thắng của một con người trước vị Chúa độc tôn trong Hồi giáo.

Đến việc hình dung lại lịch sử thế giới

Để lý giải tín ngưỡng kháng thần quyền của người Malagasy, Graeber đã nhắc lại nhận xét của nhà xã hội học Marcel Mauss (1872-1950), rằng một nền văn hóa mới thường hình thành bằng cách từ chối có chọn lọc các giá trị của nền văn hóa lân cận. 

Chẳng hạn, người Algonquin ở Alaska từ chối sử dụng loại thuyền kayak của người Inuit, dù chúng vận hành tốt hơn loại thuyền của họ; ngược lại người Inuit cũng từ chối dùng loại giày đi tuyết hữu dụng của người Algonquin. 

Kháng lực văn hóa này giúp mỗi cộng đồng định hình một lối sống riêng, thường là đối nghịch với, và bù trừ cho, các giá trị trong lối sống của một cộng đồng liền kề với mình. Trong ví dụ trên, người Malagasy đã sáng tạo một văn hóa đối nghịch với thần quyền Hồi giáo, để khước từ chế độ nô lệ trong các thành thị Hồi giáo.

Khi một cộng đồng khước từ các thiết chế quyền lực của một cộng đồng láng giềng, nó có thể không đạt đến độ tự do lớn hơn, mà chỉ mở đường cho sự ra đời của các thiết chế cũng tập trung không kém. Đó là trường hợp của các xã hội chiến binh, hình thành trên dải đất trải từ sông Danube (châu Âu) đến sông Hằng (Ấn Độ) trong suốt thời đại đồ đồng (khoảng năm 2000-1200 TCN). 

Theo nhà khảo cổ học David Wengrow, nhiều nhóm chiến binh đã hình thành các cộng đồng tách biệt, từ chối đời sống xa xỉ và trật tự hành chính phân cấp trong các thành thị thương mại lân cận vào giai đoạn này. Các hiện vật và văn bản còn sót lại cho thấy họ đề cao việc uống rượu, ca hát, thi đấu thể thao, tặng quà, chôn tài sản cá nhân thành các gò lớn sau khi qua đời - một lối sống xiển dương danh dự chiến binh và khước từ việc tích lũy tài sản. 

Họ chính là tác giả của các truyền thống thơ ca sử thi truyền miệng (như các sử thi của Homer, kinh Rig Veda, kinh Avesta...), đặt nền tảng cho các tôn giáo lớn sẽ xuất hiện sau này, khi các thành thị thương mại bị xâm chiếm bởi các xã hội chiến binh.

người da đỏ - Ảnh 2.

Sổ ghi chép từ một chuyến thực địa tới Madagascar của David Graeber. Ảnh: ISSA SCHOOL

Sự tôn sùng các cá nhân mạnh, một đặc tính của các xã hội chiến binh, đã tiếp tục định hình nhiều nét văn hóa gần chúng ta hơn - từ lối sống của giới quý tộc châu Âu thời Trung cổ và cận đại cho đến sự cạnh tranh mang tính cá nhân trong các cuộc bầu cử tổng thống thời hiện đại.

Trong vài trường hợp khác, các cộng đồng từ chối đời sống đô thị lại khước từ yếu tố bạo lực của văn hóa chiến binh. Ví dụ điển hình là Effigy Mound - một nền văn hóa của người da đỏ đông bắc Mỹ, tồn tại từ khoảng năm 550 đến 1200, có truyền thống xây các gò lớn hình người và động vật để phục vụ mục đích nghi lễ. 

Những người da đỏ thuộc truyền thống này đã chọn lối sống săn bắt, hái lượm, khước từ đồ kim loại và cấu trúc xã hội phân cấp, để tách khỏi những nền văn hóa đô thị lân cận, vốn đã canh tác nông nghiệp quy mô lớn và chế tác các đồ dùng phức tạp từ lâu. 

Graeber cho rằng họ đã chủ động đưa ra lựa chọn này để thoát khỏi nhiều vấn nạn từng dẫn đến sự sụp đổ của các đô thị lân cận - như chiến tranh, tục hiến tế người, khoảng cách giàu nghèo, sự phung phí tiền bạc cho các đồ xa xỉ, các công trình phòng thủ và công trình tôn giáo.

Chịu ảnh hưởng từ các quan niệm sử học và triết học phương Tây thế kỷ 18, 19, một bộ phận công chúng không nhỏ vẫn tin rằng mọi xã hội đều phải "tiến hóa" theo một trật tự tuyến tính tất yếu, đi từ đơn giản đến phức tạp, từ "hoang dã" đến "văn minh". 

Graeber góp thêm một tiếng nói phản bác cái nhìn này, khi chỉ ra rằng các giá trị văn hóa không phân cao thấp, mà là những lối sống tồn tại ngang hàng; và các cộng đồng có thể chủ động lựa chọn giá trị mà mình theo đuổi, thay vì thụ động chấp nhận đà đô thị hóa và thị trường hóa.

Ví dụ về người Malagasy cũng cho thấy một cộng đồng bản địa từng bị coi là "bán khai" có thể đi xa hơn trong những giá trị mà phương Tây xem là tiến bộ, qua đó gợi ý những lối sống khác cho các xã hội hiện đại đang khủng hoảng hiện nay. 

Sự học hỏi này là có thể: hội họa phương Tây đầu thế kỷ 20 mang nợ các quan điểm thẩm mỹ của người Nhật, và lối sống của người da đỏ đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến hình dung về các mối quan hệ sinh thái và quyền tự do cá nhân của cư dân toàn thế giới.

Trong các cuộc thử nghiệm lối sống này, sự hình thành các văn hóa ngoại biên đóng một vai trò quan trọng, như nghiên cứu của David Graeber cho thấy. Lịch sử thế giới cần được hình dung lại, không phải như một sự tiến hóa tất yếu, mà như chuỗi lựa chọn chủ động của các cộng đồng khác nhau.

Michel Foucault viết: "Con người hiện đại là con người tự làm ra chính mình". Trung tâm của thần thoại Malagasy là các truyện kể về Andriana - một cậu bé tự đạp thủng rốn của người mẹ mang thai mình để chui ra, rồi tuyên bố rằng cậu tự sinh ra mình, chứ "không được sinh ra bởi Chúa". Khi Andriana hướng dẫn dân làng đốt lửa hiến tế to đến nỗi không để làm hài lòng các vị thần, mà để hun khói làm mù mắt họ, Chúa buộc lòng phải xuất hiện để thi tài trí với Andriana.

Sau nhiều hiệp đấu bất phân thắng bại, cuộc thi kết thúc khi Andriana lừa được Chúa bước vào ngôi làng mà cậu hóa phép tạo ra, rồi lấy vợ trong đó và không về trời nữa. Khi vợ Chúa sinh con đầu lòng, đứa trẻ sơ sinh tuyên bố rằng mình chính là Andrinana, như vậy Chúa đã bị lừa và thua.

Trong nghịch lý khôi hài mà câu truyện tạo dựng, Chúa chỉ sinh ra con người khi bỏ cõi thiêng, nhập cõi tục, và trở thành sản phẩm từ một kế hoạch của con người. Còn nhân vật chính thì thỏa hiệp với hệ thống, qua việc thật sự "được Chúa sinh ra", trong khi đang nỗ lực chiến thắng hệ thống.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận